Dài 45 km, dòng Xà No nối Cần Thơ – Kiên Giang mất ba năm đào bằng xáng, chi phí 3,6 triệu Franc, thành tuyến huyết mạch chở lúa gạo miền Tây hơn trăm năm qua.
Gần 19h, chiếc tàu du lịch mang tên Xà No sáng đèn, neo cặp bờ kênh xáng Xà No (TP Vị Thanh, Hậu Giang), phía trên boong đã có gần 100 hành khách. Khoảng 40 phút sau, tàu bắt đầu nổ máy, quay đầu hướng về cầu Xà No. Khi tàu du lịch di chuyển trên sông cũng là lúc các nghệ sĩ trình diễn đờn ca tài tử.

Tàu du lịch 200 khách chạy về đêm trên kênh xáng Xà No. Ảnh: Hoàng Nam
Về đêm, hệ thống đèn trang trí dọc công viên hai bên bờ kênh TP Vị Thanh in bóng nước lấp lánh. Vài năm trở lại đây, thành phố đã chi gần 1.000 tỷ đồng đầu tư hệ thống bờ kè chống sạt lở dài trên 18 km, từ trung tâm thành phố kéo dài đến huyện Vị Thủy, Châu Thành A. Một dự án bờ kè 200 tỷ khác đang triển khai dài hai km đi quan huyện Châu Thành A. Bờ kè hai bên kênh đã tạo diện mạo mới cho đô thị trẻ, tựa như chiếc áo mới cho dòng Xà No.
Được đưa vào dự án khai thác du lịch trên kênh xáng Xà No hồi giữa tháng 1, tàu Xà No sức chứa 200 khách. Ban ngày, tàu phục vụ ăn uống, ban đêm từ 19 đến 21h tàu rời bến, di chuyển hành trình 7 km sau đó quay trở lại điểm xuất phát.
Ở tuổi ngoài 70, ông Nhâm Hùng (quê gốc Phụng Hiệp) là nhà biên khảo khá nổi tiếng với nhiều đầu sách về đời sống, con người miệt Hậu Giang xưa, khi nhìn cảnh này bảo rằng, đời sống phát triển dọc hai bên bờ kênh xáng hiện tại là một kỳ tích.
Bởi hàng trăm năm trước, khu vực nối Cần Thơ và Rạch Giá toàn đồng trũng hoang vu lau sậy, năng, lác rộng hàng trăm nghìn ha, là nhà của đàn trâu nước, voi rừng đông hàng trăm con. Mùa nước nổi phải di chuyển bằng ghe xuồng, mùa khô đất nhiễm phèn, mặn, chỉ có thể trồng được lúa ma vớt vát được vài bữa gạo. Đó là vùng đất mà cá sấu "nổi rền như hội", cọp nhiều vô số kể, người dân đi rừng phải dùng cây lao phụng có mũi nhọn bằng sắt như mũi tên để phòng thân.
Người Pháp vì muốn khai thác cánh đồng hoang hóa, vừa tạo ra đường thủy chiến lược nối liền sông Cần Thơ đến sông Cái Lớn ra biển tây, từ năm 1901 xúc tiến đào kênh. Công ty Montvenoux lãnh thầu, sau đó dùng 4 máy xáng thi công. Mỗi máy mạnh 350 mã lực, gàu múc 375 lít, thổi bùn xa đến 60 thước. Tuyến kênh có tổng chiều dài 45 km, trong đó phần TP Cần Thơ 12 km, được đào theo đường thẳng tắp, sâu 2,5-9 m, rộng trên mặt nước 60 m, dưới đáy 40 m.

Kênh xáng Xà No trở thành "con đường lúa gạo" ở miền Tây hơn 100 năm qua. Đồ hoạ: Khánh Hoàng
Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam của nhà "Nam Bộ học" Sơn Nam đã miêu tả: "Từ xa, chiếc xáng giống như chiếc hạm, máy chạy vang rền suốt năm, ba cây số ngàn, mang theo một số chuyên viên, nhân công hàng trăm người. Dọc theo hai bên bờ phải chở củi đem tới sẵn, vì xáng đốt nồi sốt de bằng củi".
Đến tháng 7/1903, kênh hoàn thành, chi phí lên đến 3,6 triệu Franc. Đây là công trình đường thủy lớn đầu tiên của Nam Kỳ sử dụng máy có thể so sánh với đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Cũng theo Sơn Nam, kênh khởi đào từ con rạch nhỏ phía Cần Thơ chảy qua xóm của bà con Khmer. Nơi đây có nhiều cây điên điển mọc hoang, tiếng Khmer gọi là Snor (Xà No), tên kênh xáng Xà No ra đời vì vậy.
Kênh đào xong, các chuyên gia nông nghiệp Pháp sau đó cứ cách 500 m lại cho xẻ một kênh nhỏ, 1.000 m đào một kênh lớn hơn theo lối đào "xôm lươn". Sau đó, họ tiếp tục đào nối bằng những con kênh sườn, khép kín các khu đất như những ô bàn cờ. Kênh hoàn thành đã phục vụ tưới tiêu cho khoảng 40.000 ha đất miền Hậu Giang. Dọc hai bờ kênh, người dân đến cất nhà, buôn bán.
Trước đây, xuất khẩu lúa gạo chủ yếu bằng đường biển qua Rạch Giá, Hà Tiên. Từ khi có kênh nối liền biển Tây và sông Hậu, lúa gạo miền Hậu Giang thu gom phần lớn về chợ Cái Răng qua đường này. Năm 1899, Nam Kỳ xuất được 500.000 tấn lúa gạo, từ khi có kênh xáng Xà No đã tăng lên 1,3 triệu tấn. Riêng Cần Thơ, mỗi năm xuất 116.000 tấn lúa gạo, đứng hạng nhất lúc bấy giờ. Bởi thế, kênh xáng Xà No một thời được mệnh danh "con đường lúa gạo" miệt sông Hậu.
Thời điểm tàu du lịch rời bến cũng là lúc hai chiếc ghe 50 tấn và 30 tấn của ông Trần Văn Bá (Mười Bá, 66 tuổi, xã Tân Tiến, TP Vị Thanh) rẽ nước Xà No. Bầy ghe của ông Mười đi khoảng 7 km nữa qua sông Ba Voi, đến sông Nước Đục để trở về bến nhà sau khi giao lúa cho nhà máy xay xát.

Nông dân sản xuất giỏi Trần Văn Bá bơi xuồng thăm vườn khóm của hợp tác xã. Ảnh: Hoàng Nam
Già Mười gốc Hoa Kiều ở Bạc Liêu, năm 16 tuổi đi bộ đội, sau năm 1975 ông là thương binh về miệt Vị Thanh, Hậu Giang, với tài sản duy nhất là chiếc ba lô con cóc. Trong ký ức của lão nông, kênh Xà No xưa nhỏ hẹp. Theo thời gian tàu thuyền lưu thông nhiều khiến có đoạn sạt lở, nhà dân trôi xuống kênh. Dọc hai bên bờ khi ấy vẫn còn những căn nhà cấp 4 xập xệ, lưa thưa. Từ trung tâm Vị Thanh phải chèo xuồng, hoặc đi bộ bằng những đường đất rộng gần mét, vượt cầu khỉ để vào xóm ấp.
Cưới vợ xong, ông được cho 6 công đất nhiễm phèn nặng. Thấy làm lúa một vụ năng suất một công chỉ 300- 400 kg, ông chuyển sang trồng khóm, vốn là loại cây chịu phèn giỏi. Nhờ kết hợp trên khóm, dưới cá lóc đồng, chỉ sau mấy năm ông làm ăn có lãi.
Sau gần 40 năm bám rễ bên dòng Xà No, ngoài nghề lái lúa, bán vỏ lãi composite, phân thuốc, ông Mười còn có tổng cộng hơn 10 ha khóm, kiêm Giám đốc Hợp tác xã tại địa phương với 38 thành viên, vùng trồng nguyên liệu rộng hơn 75 ha. Đoạn đường đất, cầu khỉ trước đây đã được đầu tư đường dal, cầu bê tông, ôtô có thể vào đến tận nhà.
"Không có kênh xáng Xà No dẫn nước từ sông Cần Thơ về đẩy lùi nước mặn từ biển vào, đất đai sẽ mãi bị phèn mặn, người dân sẽ không được như bây giờ", ông Mười đúc kết.
Theo ông, cây khóm trồng mỗi năm một vụ thuận ba vụ nghịch, mỗi vụ năng suất 50 tấn một ha. Với giá 10.000 đồng một ký trở lên, mỗi năm một ha khóm trừ hết chi phí, nông dân còn lãi khoảng 200 triệu đồng.
Khóm từ hợp tác xã xuất đi chủ yếu ở Long Xuyên, Cần Thơ và Bình Dương, mỗi ngày 1.000-3.000 trái. Ruộng khóm của hợp tác xã ông Mười nằm trong 1.600 ha diện tích trồng khóm Cầu Đúc tại Vị Thanh, Hậu Giang, một sản phẩm đã được bảo hộ thương hiệu.

Kênh xáng Xà No (phía trên) tại ngã ba giao nhau với sông Cần Thơ nhìn từ trên cao. Ảnh: Hoàng Nam
Trời nhá nhem tối, mưa rả rích, hai xuồng chở khoảng một tấn khóm của con trai, con dâu ông Mười cập bến. Sáu năm liền là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi từ tỉnh đến Trung ương, vậy mà những ngày này ông Mười Bá không khỏi băn khoăn. Cây khóm hồi xưa dù vận chuyển khó khăn, chủ yếu bằng xuồng, chưa có giá cao nhưng đất đai còn màu mỡ có thể trồng được trên chục năm.
Còn hiện nay, sau hai lứa phải đổi con giống vì đất đã bạc màu. Khóm từ 12.000-13.000 đồng một ký những năm trước, do dịch bệnh hiện chỉ còn 7.000 đồng. Trong khi đó, phân thuốc lại đội giá gấp đôi, chỉ trong một năm, giá mỗi bao phân DAP đã lên đến hơn 1,3 triệu đồng.
Buổi sáng, đứng bên bến tàu cặp kênh xáng tổng kinh phí 7 tỷ đồng sắp hoàn thành, bao gồm trạm dừng chân, và hệ thống quầy bán quà lưu niệm, ông Lê Minh Dũng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến du lịch Hậu Giang tươi cười bảo rằng dự án tàu du lịch Xà No là một trong hai sản phẩm du lịch chủ lực của tỉnh. Theo ông Dũng, năm 2019, lượng khách du lịch đến địa phương gần 500.000 lượt người, song do Covid-19, năm ngoái lượng khách giảm còn phân nửa.
"Chúng tôi đang kỳ vọng tàu sẽ là cú hích cho du lịch sau đợt ngủ đông kéo dài", ông Dũng nói và cho biết, địa phương đang đàm phán với một số nhà đầu tư từ TP Cần Thơ. Tuyến du lịch này sẽ kết hợp thêm các tàu du lịch vệ tinh nhỏ đưa khách đi vào sâu kênh rạch nội đồng, thậm chí sẽ nối đến tận TP Cần Thơ.
Nhịp sống bên dòng kênh xáng Xà No. Video: Hoàng Nam
Hoàng Nam
0 nhận xét:
Post a Comment