Dấu tích lò đúc gang thời chống Pháp - TIN TỨC AN NINH HÌNH SỰ

Dấu tích lò đúc gang thời chống Pháp

Thanh HóaNằm sâu nằm trong hang núi ở huyện Như Thanh, lò đúc gang Hải Vân từng sản xuất 500 tấn gang phục vụ đúc vũ khí để chống quân Pháp.

Lò đúc gang Hải Vân được xây dựng trong hang núi Đồng Mười, xã Hải Vân, huyện Như Thanh, cách TP Thanh Hóa khoảng 50 km về hướng tây nam. Chỉ hoạt động trong thời gian ngắn, lò đúc được xem như kỳ tích của ngành quân giới Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Lòng hang Đồng Mười có chỗ rộng gần 60m nên được chọn làm nơi xây lò cao đúc gang trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Lê Hoàng

Lòng hang Đồng Mười có chỗ rộng gần 60 m nên được chọn làm nơi xây lò cao đúc gang trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Lê Hoàng

Theo tài liệu lịch sử, năm 1948, dưới sự chỉ đạo của Cục Quân giới, Bộ Quốc phòng, xưởng kim khí kháng chiến 3KC do kỹ sư Võ Quý Huân (trí thức kiều bào theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước năm 1946) được giao nhiệm vụ thiết kế thi công lò cao luyện gang phục vụ kháng chiến chống Pháp.

Ban đầu, Cục Quân giới và Sở Khoáng chất kỹ nghệ Trung Bộ đã chọn Cầu Đất, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, để xây dựng lò cao nhỏ mang tính thử nghiệm. Ngày 15/11/1948, lò cao Cầu Đất cho ra mẻ gang đầu tiên, là dấu mốc trong ngành luyện kim và công nghiệp quốc phòng của đất nước khi đó.

Tuy nhiên, địa hình hiểm trở gây khó khăn trong việc vận chuyển cũng như sinh hoạt của cán bộ kỹ sư nên xí nghiệp được dời về vùng Cát Văn bên bờ sông Lam, tỉnh Nghệ An. Việc xây dựng đang tiến hành thuận lợi thì thực dân Pháp phát hiện, ngày đêm cho máy bay ném bom đánh phá.

Cuối năm 1949, sau nhiều cuộc khảo sát, lò cao luyện gang được Cục Quân giới quyết định di chuyển đến thung lũng Đồng Mười, huyện miền núi Như Xuân (nay là huyện Như Thanh, Thanh Hóa). Vị trí này thuận lợi về giao thông, gần nguồn nguyên, nhiên liệu, đảm bảo tính bí mật nên có thể hoạt động lâu dài.

Tháng 6/1950, các kỹ sư và công nhân bắt đầu xây dựng đồng thời hai lò cao với ký hiệu NX1, NX2. Lò NX1 có dung tích 6,7 m3 để sản xuất gang và lò NX2 kích thước nhỏ hơn (dung tích chỉ một m3) dùng để thử nghiệm.

Sau 15 tháng xây dựng, vận chuyển từ viên gạch chịu nhiệt đến hàng trăm tấn máy móc thiết bị từ Nghệ An ra và từ Ninh Bình vào, tháng 9/1951, hai lò cao đã hoàn thành tại thung lũng Đồng Mười.

Lò đứng (lò ủ gang) cao 13m trong hang núi Đồng Mười. Ảnh: Lê Hoàng

Lò đứng (lò ủ gang) cao 13 m trong hang núi Đồng Mười. Ảnh: Lê Hoàng

Tháng 9/1951, lò NX2 cho ra mẻ gang đầu tiên. Tiếp đó ngày 7/11/1951, lò NX1 được đưa vào vận hành. Tuy nhiên, khói lò tỏa ra dày đặc, dễ bị địch phát hiện nên phải tạm dừng hoạt động. Các kỹ sư đã cho đào một đường dẫn khói dài 500 m nằm sâu dưới lòng đất, có nhiều lỗ thông hơi nhằm tản khói đi nhiều hướng như màn sương nhẹ, máy bay địch vì thế khó phát hiện, đảm bảo an toàn khi lò hoạt động liên tục cả ngày lẫn đêm.

Cuối năm 1951, lò NX1 hoạt động trở lại và sản xuất liên tục. Sau hai năm, hai lò đúc gang ở Đồng Mười đã sản xuất được gần 200 tấn gang cung cấp cho các công binh xưởng ở Khu 4 chế tạo vũ khí phục vụ chiến trường đánh Pháp.

Hai lò đang hoạt động thì thực dân Pháp phát hiện, cho máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Căn cứ vào tình hình thực tiễn, được sự đồng ý của cấp trên, ban lãnh đạo lò cao Đồng Mười do kỹ sư Trần Đại Nghĩa, lúc bấy giờ là Cục trưởng Cục Quân giới, quyết định xây dựng lò cao trong hang núi, cách vị trí cũ chừng 2 km.

Việc xây dựng hệ thống lò cao to lớn và cồng kềnh trong lòng núi rất phức tạp về kỹ thuật và chưa có tiền lệ trên thế giới, song kỹ sư và công nhân vẫn quyết tâm thực hiện bằng được. Từ đầu năm 1953, họ vừa sản xuất gang tại vị trí cũ, vừa cho khoan đá đánh mìn dọn hang nhằm mở đường cho việc di chuyển máy móc, trang thiết bị đến vị trí mới. Hơn 400 phát mìn đã được kích nổ để mở rộng lòng hang, dọn dẹp chướng ngại vật.

Chỉ trong thời gian ngắn, lò đúc gang dung tích 8,3 m3, cao 13 m, mang bí số NX3 đã được lắp đặt hoàn chỉnh trong lòng núi Đồng Mười. Mỗi ngày, lò sản xuất trung bình ba tấn gang cung cấp các công xưởng sản xuất vũ khí. Thời gian này, quân và dân làm nên chiến thắng tại đèo Hải Vân, vì vậy Cục Quân giới đã quyết định đổi tên lò cao NX3 thành lò Hải Vân.

Theo thống kê, từ cuối năm 1951 đến tháng 7/1954, lò cao NX1 và NX3 đã sản xuất gần 500 tấn gang, đáp ứng được yêu cầu sản xuất, chế tạo các loại vũ khí như mìn, lựu đạn, súng cối, đạn bazoka, xoong nồi quân dụng... phục vụ chiến trường. Ngoài ra, gang còn dùng để đúc những quả tạ lớn làm búa máy phục vụ sửa chữa những cây cầu bị phá hoại trong chiến tranh.

Quá trình vận hành, các kỹ sư tại lò cao Hải Vân đã có nhiều cải tiến như dùng đá gres thay thế gạch dinas cách nhiệt cho toàn than lò; dùng amiante cách nhiệt cho nồi lò; nước làm lạnh cho lò cao được sử dụng hệ tuần hoàn khép kín; khí lò cao được dùng toàn bộ cho lò gió nóng và nồi hơi cho hai đầu máy xe lửa kéo máy phát điện 1.000KW; việc nạp nhiên liệu được cơ giới hóa...

Những bức tường ở khu lò sấy, lò gió nóng xây bằng gạch đặc trong lòng hang Đồng Mười. Ảnh: Lê Hoàng

Những bức tường ở khu lò sấy, lò gió nóng xây bằng gạch đặc trong lòng hang Đồng Mười. Ảnh: Lê Hoàng

Lò cao kháng chiến Hải Vân gắn liền với tên tuổi của các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam thời bấy giờ như giáo sư viện sĩ Trần Đại Nghĩa, kỹ sư Võ Quý Huân, cán bộ kỹ thuật Trịnh Tam Tỉnh, các kỹ sư Trịnh Văn Yên, Đặng Trần Cảnh, Tống Nguyên Lễ, Lương Ngọc Khuê, Nguyễn Văn Thân, Hồ Đắc Liên... Ngoài ra còn có hàng nghìn công nhân địa phương.

Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, tháng 12/1954, lò cao kháng chiến Hải Vân hoàn thành sứ mệnh và ngừng hoạt động. Lò đúc gang được đánh giá là chiến công to lớn, đóng góp trực tiếp cho nhu cầu kháng chiến và góp phần phục hồi nền kinh tế miền Bắc trong những ngày đầu hòa bình lập lại.

Do bỏ hoang trong thời gian dài, dấu tích còn lại ở di tích lò cao Hải Vân không còn nhiều. Lòng hang Đồng Mười chỉ khu lò đứng (lò ủ gang) là còn tương đối nguyên vẹn hình dáng, song lớp vỏ bằng sắt đã bị hoen rỉ, thủng lỗ chỗ nhiều vị trí. Các khu vực sinh hoạt của kỹ sư hay khu vực lò sấy, lò gió nóng... chỉ còn nền móng hoặc vài bức tường xây bằng gạch đặc chưa bị phá vỡ. Trên vách đá và trần hang còn lưu nhiều khẩu hiệu thi đua lao động sản xuất ngày ấy.

Năm 2013, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã xếp hạng lò cao kháng chiến Hải Vân là di tích lịch sử quốc gia. Di tích này nằm gần vườn quốc gia Bến En nên được coi là tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa. Tỉnh đang triển khai dự án trùng tu tôn tạo di tích này nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ và phục vụ nhu cầu tham quan trải nghiệm của du khách.

>>Dấu tích lò đúc gang

Lê Hoàng

About Quỳnh Nga

Quỳnh Nga
Recommended Posts × +

0 nhận xét:

Post a Comment