Đề xuất bảo vệ công ty, trông xe dịp Tết cũng là “người có chức vụ”, có thể phạm tội tham ô tài sản - TIN TỨC AN NINH HÌNH SỰ

Đề xuất bảo vệ công ty, trông xe dịp Tết cũng là “người có chức vụ”, có thể phạm tội tham ô tài sản

TAND tối cao vừa ra dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ.

Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về các tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ; xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt, thiệt hại do tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ gây ra; xử lý vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm.

TAND TP Hà Nội từng phạt tù 2 shipper về tội "Tham ô tài sản" do chiếm đoạt tiền COD. Ảnh: X.A.

Tại dự thảo, Điều 2 của Nghị quyết quy định về một số từ ngữ được nêu trong Điều 352 Bộ luật Hình sự về “Khái niệm tội phạm về chức vụ”.

Khoản 1 Điều 352 nêu: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.

Khoản 2, Điều 352 quy định: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.

Giải thích từ ngữ ở Điều 352 nói trên, Nghị quyết quy định “Cơ quan, tổ chức sẽ bao gồm cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.

Về khái niệm “Người có chức vụ” ở khoản 2 Điều 352, dự thảo Nghị quyết cho rằng nó bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng; sĩ quan, hạ sĩ quan, chuyên môn kỹ thuật, công nhân trong công an; Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức.

“Người có chức vụ” còn bao gồm những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, cụ thể là những người có phát sinh mối quan hệ lao động với bên giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ.

Dự thảo Nghị quyết đưa 2 ví dụ về trường hợp “những người khác”. Đầu tiên, Nguyễn Văn A là nhân viên của Công ty B (ký hợp đồng lao động) và được giao nhiệm vụ bảo vệ công ty. Quá trình thực hiện nhiệm vụ A vào kho hàng lấy 100 chiếc điện thoại trị giá 200 triệu đồng. A là người lao động, Công ty B là người sử dụng lao động, nên có phát sinh mối quan hệ lao động. Trường hợp này, A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản.

Ví dụ 2, Nguyễn Văn A là nhân viên của Công ty B (ký hợp đồng lao động). A được giao nhiệm vụ giao hàng cho khách và thu tiền. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, A đã thu tiền của khách 500 triệu đồng nhưng không nộp về Công ty B. Như vậy, Nguyễn Văn A có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội tham ô tài sản.

Giải thích thuật ngữ “do một hình thức khác” để thành “người có chức vụ” quy định tại khoản 2 Điều 352, dự thảo Nghị quyết nêu đây là trường hợp không phải do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng nhưng được giao thực hiện nhiệm vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ đó.

Ví dụ 1, Nguyễn Văn A là tình nguyện viên tham gia chương trình cứu trợ người dân bị thiên tai do Ủy ban MTTQ được giao tiếp nhận và phân phối hàng cứu trợ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, A chiếm đoạt số hàng trị giá 50 triệu đồng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản.

Ví dụ 2, Nguyễn Văn A không phải thành viên của Ban quản lý chợ B nhưng được cử hỗ trợ trông xe và thu phí gửi xe vào dịp Tết. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, A chiếm đoạt 10 triệu đồng tiền vé mà không nộp về Ban quản lý chợ. Trường hợp này, Nguyễn Văn A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tham ô tài sản.

Dự thảo Nghị quyết cũng nêu nội dung “Xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Cụ thể, người phạm tội sẽ không bị truy cứu khi có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan theo quy định;

Thứ 2, không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, hoặc có gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước nhưng đã khắc phục toàn bộ hậu quả;

Thứ 3, dự án, công trình có sai phạm đã được hoàn thành, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương, đất nước.

Ngoài ra, dự thảo nêu, xem xét “cho hưởng án treo” với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội đã khắc phục toàn bộ hoặc ba phần tư thiệt hại.

Hoặc, xem xét “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất” của khung hình phạt đối với người phạm tội nếu có đủ căn cứ quy định tại Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Điều 54: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
1.Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

About Quỳnh Nga

Quỳnh Nga
Recommended Posts × +

0 nhận xét:

Post a Comment